Được coi là một trong số các chuyên gia về lĩnh vực tài chính ngân sách của Quốc hội. Từ góc độ cơ quan chuyên môn, tham mưu và giúp việc cho QH, Phó chủ nhiệm Ủy ban Tài chính và Ngân sách Đinh Văn Nhã đã đưa ra một số định hướng nhằm đổi mới chính sách tài khóa trong việc quyết định và giám sát Ngân sách Nhà nước của Quốc hội.
… Thứ nhất, nghiên cứu bổ sung một số quy định cụ thể về NSNN vào dự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 như khái niệm về NSNN phải bao gồm tất cả các khoản thu, chi của NSNN hàng năm để khẳng định rõ tính đầy đủ, bao quát toàn diện của NSNN, hạn chế các khoản thu để ngoài NSNN; xác định rõ việc thành lập một số quỹ ngoài ngân sách; phân định cụ thể thẩm quyền của Quốc hội trong quyết định ngân sách và nhiệm vụ của các cơ quan trong quyết định và giám sát NSNN…
Thứ hai, tiếp tục nghiên cứu sửa đổi cơ bản Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002 để trình Quốc hội thông qua, trong đó tập trung phân định rõ nhiệm vụ chi của NSTƯ và NSĐP gắn liền với phân định rõ nguồn thu của các cấp ngân sách, mở rộng thêm nguồn thu phân chia cho NSĐP, bảo đảm vai trò chủ đạo của NSTƯ; xác định rõ quy trình, thủ tục lập, chấp hành, quyết toán NSNN; quy định rõ nhiệm vụ của cơ quan Kiểm toán Nhà nước trong quy trình NSNN…
Thứ 3, tiếp tục hoàn thiện chính sách và hệ thống thuế theo hướng bảo đảm tính đơn giản, rõ ràng, minh bạch, dễ kê khai, dễ kiểm tra, tạo thuận lợi cho các đối tượng nộp thuế…
Nghiên cứu giảm bớt số lượng nhóm hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế GTGT, nhóm hàng hóa, dịch vụ chịu thuế suất 5% và phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản áp dụng một mức thuế suất và một phương pháp khấu trừ thuế GTGT. Đối với thuế xuất nhập khẩu: sửa đổi biểu thuế xuất khẩu khuyến khích sản xuất, xuất khẩu các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, hạn chế xuất khẩu khoáng sản chưa qua chế biến; thu gọn số lượng mức thuế suất, từng bước đơn giản biểu thuế, mã số hàng hóa… Đối với thuế TNDN, thực hiện giảm mức thuế suất chung để tăng khả năng tích lũy, tái đầu tư thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất của doanh nghiệp; thu hẹp lĩnh vực ưu đãi, khuyến khích đầu tư vào các ngành sản xuất có giá trị gia tăng cao, công nghiệp hỗ trợ, sử dụng công nghệ cao… Đối với thuế Thu nhập cá nhân, nghiên cứu mở rộng cơ sở tính thuế và xác định rõ thu nhập chịu thuế; điều chỉnh mức thuế suất hợp lý nhằm khuyến khích cá nhân làm giàu hợp pháp.v.v..
Thứ 4, phải đổi mới quan điểm trong vấn đề phân bổ, sử dụng ngân sách Nhà nước, đặc biệt là cơ cấu mạnh và điều chỉnh tỷ lệ chi đầu tư phát triển theo xu hướng giảm tỷ lệ chi đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước, hiện nay đang ở khoảng 26-28% xuống khoảng 19-20%, để dành cao hơn cho chi phát triển con người. Tuy những năm gần đây đã được tăng cao nhưng chi cho đầu tư con người, cho giáo dục đào tạo, cho an sinh xã hội mới chỉ đáp ứng được 50% so với nhu cầu phát triển bền vững đất nước. Đồng thời trong quản lý đầu tư công phải thể hiện rất rõ, kiên định quan điểm là đầu tư từ ngân sách Nhà nước chỉ đầu tư cho cơ sở hạ tầng không thu hồi được vốn, những cơ sở hạ tầng có thể khai thác được bằng những hình thức phù hợp khác thì có cơ chế, chính sách thích hợp để khuyến khích, bảo đảm lợi ích của các doanh nghiệp, thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài để đầu tư; kể cả khu vực dịch vụ công mà các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay đang làm, nếu các khu vực kinh tế khác, thành phần khác làm tốt hơn thì Nhà nước cũng sẵn sàng, và phải tuyên bố rõ ràng, là dành cho khu vực các thành phần kinh tế khác đảm nhiệm, thu hẹp lại đầu tư công để dành cho các nhu cầu phát triển khác.
Thứ 5, tăng cường tính công khai, minh bạch trong quản lý ngân sách Nhà nước. Thực tế 10 năm gần đây quản lý ngân sách của Việt Nam chúng ta cũng đã tương đối công khai từ công khai dự toán cho đến quyết toán NSNN, rồi công khai tất cả các định mức chi tiêu, định mức phân bổ trong phạm vi cả nước. Tuy nhiên so với yêu cầu của nhân dân thì mức độ công khai cũng còn nhiều bất cập, đó là nội dung công khai, thông tin công khai. Chúng ta công khai nhưng người dân chưa hiểu được những con số và chưa hiểu được những khoản thuế mà nhân dân và doanh nghiệp đóng góp được sử dụng hiệu quả như thế nào, ai là người sử dụng và có quyền chất vấn đến cơ quan nào về những vấn đề nên công khai. Đây là vấn đề rất lớn trong xu hướng phát triển xã hội dân chủ để đảm bảo dân chủ trong quản lý kinh tế và ngân sách Nhà nước.
Thứ 6, nghiên cứu kinh nghiệm của các nước để có sự chủ động chuẩn bị những điều kiện cần thiết hướng tới áp dụng sớm phương pháp xây dựng dự toán ngân sách Nhà nước theo kế hoạch chi tiêu trung hạn gắn với kết quả đầu ra. Đây là một phương pháp tiên tiến khá hiện đại đã được áp dụng tại nhiều nước trên thế giới trong đó có một số nước có nền kinh tế chuyển đổi và đang chứng minh được những kết quả rất ưu việt mà chúng ta cũng cần phải hướng tới. Đây là một phương pháp rất quan trọng để chúng ta thay đổi cách làm khi Quốc hội có thể xem xét thông qua được khung về chính sách tài khóa cho giai đoạn tới để phục vụ cho việc lập dự toán ngân sách Nhà nước hàng năm.
Thứ 7, nghiên cứu để tiếp tục sửa đổi những quy định để đảm bảo tăng tính thực quyền, nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động của Quốc hội trong quyết định và giám sát ngân sách Nhà nước. Để đảm bảo yêu cầu này trong quá trình sửa đổi Luật ngân sách Nhà nước yêu cầu đầu tiên là phải tăng thêm thời gian lịch biểu tài chính để Quốc hội cũng như Hội đồng nhân dân có thời gian xem xét, quyết định dự toán và quyết định quyết toán khi phê duyệt. Đồng thời trong thời gian tới Quốc hội trong quá trình thảo luận cần phải ưu tiên dành nhiều thời gian hơn cho tập trung thảo luận về những nội dung của chính sách và đánh giá kết quả thực hiện những mục tiêu chính sách đề ra thay vì chúng ta chỉ dành nhiều thời gian bàn về tăng giảm các chỉ tiêu kinh tế hoặc là các con số ngân sách khi liên quan đến phân bổ và dự toán, quyết toán ngân sách Nhà nước. Tăng cường tổ chức các phiên điều trần về NSNN tại các cơ quan của Quốc hội.
Cuối cùng, để thực hiện được một số định hướng trên đây thì cần phải đổi mới cung cách cũng như chế độ cung cấp thông tin cho đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng, tức là các cơ quan dân cử, để các đại biểu có điều kiện cập nhật sát tình hình thực tiễn hơn, thay đổi cách thông tin như hiện nay là thông tin còn ít; nhất là cần phải tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kể cả tiền bạc để các cơ quan tham mưu cho cơ quan dân cử từ Hội đồng nhân dân đến các cơ quan Quốc hội có đủ khả năng để xây dựng triển khai một hệ thống thông tin độc lập của mình nhằm nâng cao chất lượng thông tin cũng như khả năng tham mưu cho các cơ quan dân cử Việt Nam, nhất là các cơ quan Quốc hội, trong việc xem xét quyết định có chất lượng hơn những vấn đề thuộc thẩm quyền liên quan đến giám sát và quyết định ngân sách Nhà nước./.